Danh ngôn:

"HỌC MÀ CHƯA THẤY VUI THÌ CHƯA GỌI LÀ HỌC" (Tư Mã Quang)







12.17.2011

TCQLDNBH: ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 6

MODULE 6
NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
A. Đ cương nghiên cứu chi tiết
6.1. Vai trò – Chức năng quản trị nhân lực
6.1.1. Mục tiêu quản trị nhân lực trong doanh nghiệp
6.1.2. Sự cần thiết của quản trị nhân lực trong doanh nghiệp bảo hiểm
6.1.3. Vai trò của quản trị nhân lực
6.1.4 Chức năng của quản trị nhân lực
Câu hỏi nghiên cứu
■   Hãy trình bày hai mục cơ bản của quản trị nguồn nhân lực trong doanh nghiệp?
   Hãy trình bày những lý do cho thấy vì sao quản trị nhân lực trong doanh nghiệp bảo hiểm là rất cần thiết?
    Hãy phân tich vai trò và chức năng của quản trị nhân lực trong doanh nghiệp bảo hiểm?
6.2. Tổ chức bộ máy quản trị nhân lực
6.2.1. Chức năng của bộ phận quản trị nhân sự
6.2.2. Nhiệm vụ của bộ phận quản trị nhân sự
6.2.3. Quyền hạn của bộ phận quản trị nhân sự
6.2.4. Quản trị viên nhân sự
    Tại sao phải hình hành bộ phận chức năng quản trị nhân sự trong doanh nghiệp bảo hiểm? Việc hình thành bộ phận này phải đáp ứng những yêu cầu gì?
   Bộ phận quản trị nhân sự của doanh nghiệp có những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn gì?
   Hãy trình bày các tiêu chuẩn của quản trị viên nhân sự?
6.3. Nội dung của quản trị nhân lực
6.3.1. Xây dựng chiến lược nhân sự cho doanh nghiệp
6.3.2. Định biên
a. Phân loại lao động
b. Tuyển dụng lao động
c. Hòa nhập người lao động
d. Quản lý sự biến động lao động
6.3.3.  Phát triển nhân lực
a. Đánh giá lao động
b. Đào tạo và bồi dưỡng nhân lực
c. Phát triển nghề nghiệp
d. Trả công lao động
    Liệt kê các nội dung cơ bản của công tác quản trị nhân lực?
    Chiến lược nhân lực là gì? Hãy trình bày các bước xây dựng chiến lược nhân lực cho doanh nghiệp?
    Định biên là gì? Trình bày các nội dung cơ bản của công tác định biên?
    Hãy trình bày cách phân loại lao động trong doanh nghiệp bảo hiểm theo các tiêu chí khác nhau? Ý nghĩa của việc phân loại lao động?
    Tuyển dụng lao động phải đáp ứng những yêu cầu nào và phải tuân thủ nguyên tắc nào? Các bước của công việc tuyển dụng lao động?
   Hòa nhập người lao động là gì? Mục tiêu của công việc này là gì?
    Lao động của doanh nghiệp biến động do những nguyên nhân nào? Các tính hệ số biến động lao động trong doanh nghiệp?
    Phát triển nhân lực trong doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm những nội dung cơ bản nào?
   Ý nghĩa và cách thức đánh giá lao động?
    Phát triển nghề nghiệp khác biệt như thế nào với đào tạo nhân lực? Trình bày ba giai đoạn của chiến lược phát triển nghề nghiệp trong doanh nghiệp bảo hiểm
    Ý nghĩa, nội dung và các hình thức đào tạo nhân lực trong doanh nghiệp bảo hiểm?
    Có những hình thức trả công lao động nào trong doanh nghiệp bảo hiểm? Trình bày các phương pháp xác định quỹ lương trong doanh nghiệp bảo hiểm?
B. Thời lượng nghiên cứu
B.1. Lên lớp: 5tiết, 5 tiết/ tuần
 Trình bày lý thuyết cơ sở: 01 tiết
 Thảo luận tình huống theo nhóm và báo cáo kết quả thảo luận: 03 tiết/ tình huống
 Đúc kết tình hưống: 01 tiết/ tình huống
B.2. Tư nghiên cứu: 5 tiết (tự phân bố trong 1 tuần)
C. Nội dung tình huống và câu hỏi thảo luận nhóm
• Câu hỏi thảo luận nhóm:
Mục tiêu: Nắm vững, sâu hơn và có khả năng xâu chuỗi và mở rộng kiến thức của cả chương.
• Tình huống nghiên cứu:
Mục tiêu: Vận dụng kiến thức để phân tích tình hình thực tế trên thị trường bảo hiểm Việt Nam
Nội dung tình huống
 Lựa chọn mơ hình quản trị nhân lực  cho doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ.
 Trường hợp Bảo Tín
Các tài liệu cập nhật và đọc trong giờ tự nghiên cứu:
 Giáo khoa Quản trị nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bảo hiểm, Nguyễn Tiến Hùng, Trường Đại học kinh tế TP.HCM, 2009
 Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, Nguyễn Văn Định, Nhà xuất bản Thống Kê, 2003, Chương VI: Quản trị nhân lực trong doanh nghiệp  bảo hiểm;
D. Phương pháp đánh giá
• Đánh giá quá trình: Tham gia thảo luận câu hỏi theo nhóm và bài tập tình huống;
• Kiểm tra kết thúc học phần: Nội dung phần này chiếm 5% đề thi kiểm tra cuối học phần (tương đương 1 câu hỏi (tự luận)/ 5 câu hỏi trắc nghiệm - 5 phút).
MODULE 6 CÂU HỎI THẢO LUẬN NHÓM
Trước tiên, thời gian tự nghiên cứu, mỗi cá nhân hãy đọc kỹ các bài đọc trong phần tài liệu cơ sở và các tài liệu khác. Sau đó, chia thành nhóm từ 5-7 người, thảo luận làm rõ các vấn đề sau:
1.      Hãy tìm càng nhiều càng tốt những tiêu chí khác nhau nhằm phân loại lao động của một doanh nghiệp bảo hiểm?
2.      Các hình thức đào tạo trong doanh nghiệp bảo hiểm: trường hợp áp dụng, lợi ích và sự bất cập của từng hình thức đào tạo?
3.      Các hình thức tuyển dụng nhân lực: Trường hợp áp dụng? Điểm mạnh và bất cấp của mỗi hình thức?

 
MODULE 6 BÀI TẬP TÌNH HUỐNG 1
Trong các module trước, các bạn đã quyết định khởi nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ và dự án thành lập doanh nghiệp của bạn đã được Bộ Tài chính cấp giấy phép và đã triển khai hoạt động
1.      Thử phát họa sơ đồ tổ chức bộ máy công ty mà trong đó cho thấy sự đảm bảo nội dung của công tác quản trị nhân lực được thực hiện một cách đầy dủ nhất?
2.      Với tư cách là CEO của doanh nghiệp này, bạn sẽ tiến hành những giải pháp gì để một cách lâu dài có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng quản trị nhân lực của công ty?

MODULE 6 BÀI TẬP TÌNH HUỐNG 2
Hãy đọc các bài viết về vụ tranh chấp giữa Chủ tịch HĐQT Công ty CPBH Bảo Tín và nhân viên công ty đã được đăng tải trên các báo (Nguồn lưu trữ: http://www.baohiem.pro.vn/Ins_News_Article.asp?CatID=66&ID=2142).
YÊU CẦU
1.      Điều gì đang diễn ra ở công ty CPBH Bảo Tín? Nguyên nhân?
2.      Nếu là Cố vấn của Hội đồng quản trị của Bảo Tín, bạn sẽ đề xuất HĐQT những giải pháp gì để giải quyết tình trạng trên?

Những cao ốc bị hỏa hoạn ở Việt Nam

Hỏa hoạn ở tòa nhà ITC (TP HCM) làm 61 người chết, 70 người bị thương; cháy chung cư 18 tầng ở Hà Nội làm 2 mẹ con tử vong... đã để lại nhiều bài học cho công tác phòng cháy chữa cháy.

Sau hơn 9 năm, nhiều người vẫn chưa thể quên hỏa hoạn tại Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) cao 6 tầng ở TP HCM cuối tháng 10/2002, cướp đi 61 sinh mạng, làm chừng 70 người khác bị thương, và gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng.
Để ứng phó với vụ cháy được cho là chưa từng có này, TP HCM đã huy động hơn 60 xe cứu hỏa cùng gần 400 chiến sĩ tham gia làm nhiệm vụ. Tuy nhiên, do những vòi phun quá yếu, không thể phun nước vào tới bên trong toà nhà nên gần 50 văn phòng của các doanh nghiệp, tổ chức đặt trụ sở tại đây bị thiêu rụi.
Lực lượng chữa cháy quá mỏng, không được trang bị đầy đủ (như thiếu loa phóng thanh hướng dẫn người sơ tán, mặt nạ chống nóng, thang cứu hộ...) đã khiến cho quá trình dập lửa cứu người gặp nhiều khó khăn. Nhiều nạn nhân mắc kẹt bị lửa thiêu cháy đen, không thể nhận dạng. Không ít người vì quá hoảng loạn đã lao mình ra khỏi lan can và bị chấn thương.
Nguyên nhân vụ cháy tòa nhà là do sự bất cẩn của thợ hàn khi sửa lại vũ trường Blue đặt tại đây. Sau khi để xảy ra cháy, ba thợ hàn sợ hãi bỏ chạy mà không ở lại dập lửa nên đám cháy lan nhanh ra cả tòa nhà rộng hơn 5.000 m2.
10 người bị khởi tố, 16 tập thể và cá nhân liên quan đến thảm họa này bị kỷ luật. Nhưng với người dân thành phố, vụ cháy lớn với số người thiệt mạng nhiều nhất sẽ vẫn là những nỗi ám ảnh khó phai.

Quang cảnh hỗn loạn tại hiện trường vụ cháy tòa nhà ITC
Chiều 24/5/2009, đám cháy lớn kèm nhiều tiếng nổ xảy ra tại cao ốc căn hộ cho thuê 32 tầng của khu phức hợp cao cấp Kumho Asiana Plaza, đường Lê Duẩn (TP HCM). 8 xe chữa cháy và gần 100 cảnh sát cứu hỏa được huy động dập lửa tại khu cao ốc đang trong quá trình hoàn thiện.
Nguồn cháy bùng phát từ khu vực tầng trệt. Nguyên nhân ban đầu được xác định là khí gas của hệ thống dàn lạnh bên hông phải của tòa nhà bị xì. Gần một giờ sau, ngọn lửa được dập tắt. Ít nhất 35 cục nóng lạnh của hệ thống dàn lạnh bị thiêu rụi. Rất may không có thương vong nào xảy ra.
Tòa nhà Kumho Asiana Plaza do tập đoàn Kumho Asiana (Hàn Quốc) đầu tư, khởi công cuối năm 2006. Khi đi vào hoạt động, đây được coi là khu cao ốc văn minh và hiện đại nhất TP HCM.
Gần một năm sau tại Hà Nội, tối 10/3/2010, chung cư JSC 18 tầng ở phố Lê Văn Lương mới đưa vào sử dụng bốc cháy nghi ngút. 20 phút sau khi xảy ra cháy, 6 xe cứu hỏa được điều đến hiện trường, cảnh sát phải mang mặt nạ ôxy, bắc thang tiếp cận các tầng cao giải cứu người mắc kẹt đang đứng ở ban công vẫy khăn cầu cứu. Có gia đình tầng 18 bện quần áo thành dây buộc con thả xuống lan can tầng 17 nhờ giúp đỡ.
Một tiếng sau, ngọn lửa được khống chế, hơn 40 người được giải cứu nhưng do bị ngạt khói nặng nên chị Vương Lan Phương (34 tuổi) và con trai Lưu Gia Minh (10 tuổi) ở tầng 18 đã tử vong tại bệnh viện.
Theo cơ quan chức năng, vụ cháy chung cư bắt nguồn từ hầm chứa rác và thiết kế của tòa nhà đã có nhiều thay đổi so với ban đầu. Ống xả rác phải làm bằng thép nhưng lại được lắp đặt bằng vật liệu composite nên gây ra cháy. Còn nguyên nhân gây cháy được xác định có thể là nhúm tàn thuốc lá hoặc than tổ ong cháy dở. Công an quận Thanh Xuân đã khởi tố điều tra vụ cháy để làm rõ trách nhiệm.

Chiều 27/8/2011, tầng 7 công trường xây dựng tổ hợp Keangnam (đường Phạm Hùng, Hà Nội) - tòa nhà cao nhất Việt Nam bỗng bốc khói đen nghi ngút khiến hàng trăm công nhân hoảng hốt, giao thông xung quanh cao ốc tắc nghẽn.
Tòa nhà 7 tầng này được thiết kế để ôtô cho tòa tháp thương mại 70 tầng. Hai xe cứu hỏa, một xe téc và hàng chục cảnh sát được huy động. Cảnh sát đã dùng xe thang tiếp cận tầng 7, phun nước dập tắt đám cháy nhưng một trong hai giàn làm lạnh đặt trên nóc tòa nhà bị thiêu rụi, thiệt hại ước tính 30.000 USD.
Do bất cẩn khi hàn, cắt lắp đặt hệ thống máy tản nhiệt, máy làm mát cho tòa nhà 72 tầng đặt trên nóc nhà đỗ xe, nhà thầu của dự án đã bị Sở Cảnh phát Phòng cháy chữa cháy Hà Nội phạt 7,5 triệu đồng.
Mới đây nhất, chiều 15/12, tòa nhà 33 tầng của Tập đoàn Điện lực Việt Nam trên phố Cửa Bắc (Hà Nội) đang trong giai đoạn hoàn thiện bốc cháy dữ dội, tạo thành cột khói cao hàng trăm mét. Hàng chục công nhân đang làm việc trên các tầng bị mắc kẹt.
Hàng chục lượt xe cứu hỏa cùng 600 cảnh sát chữa cháy, bộ đội... được điều đến hiện trường tham gia cứu hộ. Ba xe thang được huy động nhưng do chỉ vươn tới tầng 17 nên những công nhân mắc kẹt ở các tầng cao phải đập kính chui ra ngoài, đứng chênh vênh trên những thanh sắt phía ngoài cầu cứu.
Cứu hộ nạn nhân mắc kẹt trong cao ốc hiện đại bằng biện pháp thô sơ. Ảnh: Nguyễn Hưng.

Thiếu phương tiện cứu hộ hiện đại, không có đèn chiếu sáng nên lực lượng chức năng phải đi cầu thang bộ, dùng ròng rọc giải cứu nạn nhân. Năm tiếng sau vụ cháy, 40 công nhân bị mắc kẹt mới được giải cứu, trong đó 24 người phải nhập viện trong tình trạng bị ngạt khói.
Phó giám đốc Sở Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy Hà Nội cho biết, nguyên nhân hỏa hoạn là do lửa đã bắt vào hệ thống bảo ôn, mút xốp ở dưới tầng hầm, sau đó bắt vào các vỏ dây điện 3 pha nên gây ra khí rất độc, đậm đặc. Thêm nữa, công tác phòng cháy của tòa nhà EVN không đảm bảo quy định.
Khẳng định việc việc giải cứu người bị nạn bằng trực thăng là phương án hay song ông Phó giám đốc Sở cho rằng không đơn giản vì không phải chỗ nào trực thăng cũng đỗ được. Hiện, xe thang phòng cháy chữa cháy chủ yếu dùng loại 32, 52, 54 mét - tức là cao nhất tương đương với nhà 17 tầng.
Khánh Chi
(Nguồn: VnExpress)


11.17.2011

Bác sĩ làm sai, bệnh nhân được đền bù

Từ ngày 1-1-2012, Nghị định 102/2011/NĐ-CP ngày 14-11 của Chính phủ quy định về bảo hiểm trách nhiệm trong khám bệnh, chữa bệnh sẽ có hiệu lực.
Theo nghị định này, bệnh nhân sẽ được bảo hiểm chi trả đối với tai biến trong khám, chữa bệnh do sai sót chuyên môn kỹ thuật gây ra bởi lỗi sơ suất, bất cẩn của người hành nghề tại cơ sở khám, chữa bệnh.
>> Click vào đây để tải Nghị định 102/2011/NĐ-CP

Bên thứ ba giải quyết
BS Nguyễn Hữu Tùng, Tổng Giám đốc BV Đa khoa Hoàn Mỹ, cho biết việc Chính phủ ban hành nghị định này có nhiều điểm có lợi cho cả bệnh nhân và BV, nhân viên y tế.
Đối với bệnh nhân, khi bị tai biến và khiếu nại BV, nếu chưa được BV giải quyết thỏa đáng thì họ sẽ tiếp tục khiếu nại, khi đó bảo hiểm sẽ vào cuộc. Bảo hiểm là bên thứ ba phân định, giải thích chuyên môn nguyên nhân rủi ro do đâu, mức độ ra sao và mức bồi thường như thế nào. Tất cả chứng cứ này dựa trên bảng kiểm điểm của BV, đánh giá của hội đồng khoa học của ngành y tế. Nếu hồ sơ đánh giá việc rủi ro do bệnh lý hay do bệnh nhân thì tất nhiên bệnh nhân sẽ không được bồi thường.
“Ba năm qua, chúng tôi đã mua bảo hiểm cho cả hệ thống BV là 8 tỉ đồng/năm, mức bồi thường tối đa là 2 tỉ đồng/năm. Khi có rủi ro xảy ra, trước tiên chúng tôi thương thảo, thỏa thuận với bệnh nhân trước. Nếu mức bồi thường dưới 40 triệu đồng thì BV lo, còn trên đó thì bảo hiểm chi” - BS Tùng nói. Tuy nhiên, theo BS Tùng, việc mua bảo hiểm với mục đích là nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, quản lý để đội ngũ y tế yên tâm làm việc chứ không phải để nhân viên ỷ lại. Trong trường hợp nếu xảy ra lỗi chuyên môn được đánh giá là do nhân viên y tế cố ý thì người này phải chịu trách nhiệm bồi thường cho bệnh nhân.
“Ngày trước chúng ta mù mờ, khi bệnh nhân khiếu nại, BV sợ mất uy tín, mất bệnh nhân nên thương thảo tháng này qua tháng kia. Còn xử lý bác sĩ thì không ai làm. Giờ có bên thứ ba độc lập, vấn đề sẽ được giải quyết rõ ràng và trong thời gian nhất định” - BS Tùng nói.


Bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp cho nhân viên y tế là cần thiết, tuy nhiên nguy cơ họ bị kiện tụng sẽ tăng lên. Ảnh: DUY TÍNH
Bảo hiểm phải có kiến thức về y khoa
Tuy nhiên, nhiều lãnh đạo các BV vẫn còn băn khoăn với nghị định này.
TS Trần Thị Phương Thu, Giám đốc BV Mắt TP.HCM, cho biết: “Tai biến trong y khoa là điều không ai mong muốn, có thể do rủi ro hay do tay nghề kém. Do đó, chúng tôi rất mong muốn có bên thứ ba giải quyết để bác sĩ yên tâm làm việc và bác sĩ với bệnh nhân không đứng ra kiện tụng. Tuy nhiên, 10 năm qua, từ khi thành lập khoa Bán công kỹ thuật cao, chúng tôi đã thử mua bảo hiểm cho 10 bác sĩ ở khoa này, chi phí 17-20 triệu đồng/năm nhưng thực tế không có lợi ích gì cả”.
Cũng theo BS Thu, BV đã gặp một vụ, khi BV đưa hồ sơ qua, phía bảo hiểm nói đây là rủi ro do thuốc chứ không phải do bác sĩ nên không bồi thường, cuối cùng BV phải chịu. “Chúng tôi thấy thủ tục chưa hợp lý, bảo hiểm né trách nhiệm và thiếu nghiệp vụ. Do đó, bảo hiểm cần có nghiên cứu, hợp tác và thông thạo nghiệp vụ y tế là điều rất quan trọng” - TS Thu nói.
Theo giám đốc một BV khác, với nghị định này, bệnh nhân không có cái lợi gì khác ngoài việc được bồi thường. Tuy nhiên, bệnh nhân có nguy cơ bị sai sót nhiều hơn nếu bác sĩ thiếu y đức cứ nghĩ đã có bảo hiểm lo nên an tâm làm bậy. Mặt khác, sẽ có nhiều lời xui khiến bệnh nhân đi kiện. Cũng theo vị lãnh đạo này, trong nghị định quy định chỉ thanh toán bảo hiểm khi đó là lỗi của bác sĩ. Vậy có điều khoản khi mua bảo hiểm ra sao nếu bác sĩ cố tình làm bậy? Liệu bác sĩ mua bảo hiểm, khi xảy ra kiện tụng thì bệnh nhân có đến tìm bác sĩ hay không?

Sản phẩm bảo hiểm cụ thể còn chờ thông tư
Theo lộ trình thực hiện, chậm nhất đến cuối tháng 12-2015, BV đa khoa, chuyên khoa, BV y học cổ truyền phải mua bảo hiểm trách nhiệm trong khám, chữa bệnh. Đến cuối tháng 12-2017, các cơ sở khám, chữa bệnh phải mua bảo hiểm trách nhiệm trong khám, chữa bệnh. Chúng tôi đã trao đổi với ông Phùng Đắc Lộc, Tổng Thư ký Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam,xung quanh vấn đề mới mẻ này:
. Trường hợp nào bảo hiểm bồi thường, trường hợp nào không, thưa ông?
+ Phải chờ thông tư của Bộ Tài chính. Tôi được biết hiện nay Bộ Y tế đang soạn thảo dựa theo Luật Khám bệnh, chữa bệnh, sau đó xin ý kiến Bộ Tài chính và bộ này giao cho Cục Bảo hiểm soạn thảo. Nhưng cụ thể chi tiết nhất vẫn nằm ở sản phẩm bảo hiểm, còn nghị định chỉ là khung để thực hiện.
. Có ý kiến cho rằng bảo hiểm phải có nghiệp vụ y khoa để thẩm định độc lập?
+ Bảo hiểm là bộ phận hòa giải giữa BV và người bệnh trong khi một bên là BV muốn giảm bồi thường, còn bệnh nhân thì muốn tăng. Do đó, bảo hiểm phải khách quan nhưng muốn khách quan thì phải có nghề. Nếu hòa giải không thành thì bệnh nhân kiện ra tòa.
Bảo hiểm không phân xử mà do tòa quyết bồi thường bao nhiêu cho bệnh nhân thì bảo hiểm trả trong phạm vi trách nhiệm bồi thường, còn vượt quá hợp đồng thì BV phải trả. Thí dụ hợp đồng giữa BV và bảo hiểm là 500 triệu đồng/vụ, tòa xử đền 600 triệu đồng thì BV phải trả thêm 100 triệu đồng. Hiện các công ty bảo hiểm đã có người làm trong ngành y phục vụ nhưng còn ít. Muốn phát triển phải chuyên nghiệp hơn.
Những vụ kiện tiền tỉ
Tháng 6-2009, bệnh nhân HHT (Việt kiều Mỹ) mổ đục thủy tinh thể tại BV Mắt Sài Gòn, sau đó bị viêm nhiễm giác mạc mà trong nước không thể điều trị được nên ông sang Mỹ thay giác mạc với chi phí lên đến 50.000 USD. Bệnh nhân trở lại Việt Nam yêu cầu BV bồi thường 85.000 USD nhưng BV nói mình không sai nên đề nghị hỗ trợ 8.500 USD.
Từ ngày 17 đến 18-2-2010, 22 bệnh nhân bị đục thủy tinh thể mổ phaco tại BV Mắt TP.HCM bị nhiễm trùng, không thấy ánh sáng do chất chỉ thị màu bị nhiễm khuẩn. BV đã thỏa thuận bồi thường 8-10 triệu đồng/người. Có 12 người không đồng ý nên kiện ra tòa. Sau khi hòa giải, bảy bệnh nhân chịu nhận bồi thường 15-40 triệu đồng và rút đơn kiện, còn năm bệnh nhân khác đòi 70-120 triệu đồng.
DUY TÍNH

11.16.2011

TCQLDNBH: ĐỀ CƯƠNG CHƯƠNG 4

MODULE 4
SẢN PHẨM BẢO HIỂM
A. Đề cuơng chi tiết và mục tiêu nghiên cứu
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
4.1. Sản phẩm bảo hiểm
4.1.1. Khái niệm sản phẩm bảo hiểm
4.1.2. Đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm
a. Đặc điểm chung của dịch vụ
b. Đặc trưng của sản phẩm bảo hiểm
4.1.3. Phân loại sản phẩm bảo hiểm
a. Sản phẩm nhân thọ
- Theo sự kiện bảo hiểm
- Theo mục đích đảm bảo
- Theo loại hình chính – bổ trợ
- Theo nhóm khách hàng
- Theo kênh phân phối
b. Sản phẩm phi nhân thọ
- Theo đối tượng bảo hiểm
- Theo nhóm khách hàng
- Theo gói sản phẩm
- Theo kênh phân phối
4.1.4. Chu kỳ sống của sản phẩm
a. Giai đoạn giới thiệu
b. Giai đoạn tăng trưởng
c. Giai đoạn trưởng thành
d. Giai đoạn suy giảm
4.1.5. Nhãn hiệu sản phẩm
a. Ý nghĩa
b. Đặt tên cho sản phẩm
Câu hỏi nghiên cứu
        Hãy trình bày khái niệm sản phẩm bảo hiểm dưới nhiều giác độ khác nhau:
§  Khách hàng;
§  Quản trị kinh doanh bảo hiểm;
§  Marketing
        Hãy trình bày những đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm?
        Hãy phân loại sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ theo các tiêu chí khác nhau?
        Hãy phân tích các giai đoạn trong vòng đời của sản phẩm bảo hiểm (giới thiệu, tăng trưởng, trưởng thành, suy giảm)?
        Hãy phân tích ý nghĩa của nhãn hiệu sản phẩm bảo hiểm?
4.2. Phát triển sản phẩm mới
3.2.1. Khái niệm sản phẩm mới
3.2.2. Sự cần thiết
3.2.3. Quy trình phát triển sản phẩm mới
a. Hình thành và sàng lọc ý tưởng
b. Phân tích kinh doanh tổng thể (đánh giá thị trường tiềm năng)
c. Thiết kế kỹ thuật
d. Xin giấy phép và thử nghiệm
e. Theo dõi – đánh giá và hoàn thiện sản phẩm
        Thế nào là sản phẩm mới? Vì sao cần thiết phải phát triển sản phẩm mới?
        Trình bày nội của các giai đoạn trong quy trình phát triển sản phẩm mới?
4.3. Giá cả sản phẩm bảo hiểm
4.3.1. Vai trò và yêu cầu
4.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm bảo hiểm
a. Mục tiêu định giá
b. Chi phí
c. Khách hàng
d. Sự cạnh tranh
e. Sự can thiệp của Chính phủ
f. Các nhân tố khác
4.3.3. Chiến lược định giá sản phẩm bảo hiểm
a. Định giá theo chi phí
b. Định giá cạnh tranh
c. Định giá theo khách hàng
4.3.4. Tăng giảm phí bảo hiểm
a. Rủi ro tiêu chuẩn
b. Theo số lượng
c. Theo giới tính
d. Theo thị trường
        Hãy phân tích vai trò và yêu cầu của việc xác định giá cả của sản phẩm bảo hiểm?
        Các loại mục tiêu định giá ảnh hưởng như thế nào đến việc xác định giá cả sản phẩm bảo hiểm?
        Vì sao nói giá cả sản phẩm bảo hiểm được xác định dựa trên chi phí dự tính chứ không phải dựa trên chi phí thực tế?
        Cầu về sản phẩm, Sức mua của khách hàng, Nhận thức của khách hàng và mong muốn về sự linh hoạt giá của khách hàng có ảnh hưởng như thế nào đến việc xác định giá cả sản phẩm bảo hiểm?
        Sự cạnh tranh có tác động như thế nào đối với việc định giá sản phẩm bảo hiểm? Khi nào thì tác động này bị triệt tiêu?
        Trình bày các chiến lược định giá sản phẩm bảo hiểm: theo chi phí, cạnh tranh, theo khách hàng?
        Trình bày các trường hợp sử dụng tăng giảm phí bảo hiểm: Theo rủi ro ưa chuộng, số lượng, giới tính, thị trường?

B. Thời lượng nghiên cứu
B.1. Lên lớp: 5tiết, 5 tiết/ tuần
  • Trình bày lý thuyết cơ sở: 01 tiết
  • Thảo luận tình huống theo nhóm và báo cáo kết quả thảo luận: 03 tiết/ tình huống
  • Đúc kết tình hưống: 01 tiết/ tình huống
B.2. Tư nghiên cứu: 5 tiết (tự phân bố trong 1 tuần)
C. Nội dung tình huống và câu hỏi thảo luận nhóm
  • Câu hỏi thảo luận nhóm: Nắm vững, sâu hơn và có khả năng xâu chuỗi và mở rộng kiến thức của cả chương.
  • Tình huống nghiên cứu:
Mục tiêu: Vận dụng kiến thức để phân tích tình hình thực tế trên thị trường bảo hiểm Việt Nam
Nội dung tình huống:
(1)    Lựa chọn sản phẩm kinh doanh cho doanh nghiệp phi nhân thọ mới thành lập. Thiết kế mô hình phân phối sản phẩm bảo hiểm cho một doanh nghiệp bảo hiểm qua các kênh khác nhau.
(2)    Bình luận tình hình cạnh tranh của thị trườngi nhân thọ Việt Nam.
  • Các tài liệu cập nhật và đọc trong giờ tự nghiên cứu:
(1)   Giáo khoa “Sản phẩm bảo hiểm”, Nguyễn Tiến Hùng, Trường đại học kinh tế TP.HCM (Lưu hành nội bộ);
(2)   Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, Nguyễn Văn Định, Nhà xuất bản Thống Kê, 2003, Chương IV: Quản trị sản phẩm  bảo hiểm;
(3)   Marketing Essentials, Philip Kotler (Bản dịch của Phan Thăng, Vũ Thị Phương, Giang Văn Chiến) Nhà xuất bản Thống Kê, 2002.
D. Phương pháp đánh giá
  • Đánh giá quá trình:  Tham gia thảo luận câu hỏi theo nhóm và bài tập tình huống;
  • Kiểm tra kết thúc học phần: Nội dung phần này chiếm 5% đề thi kiểm tra cuối học phần (tương đương 1 câu hỏi (tự luận)/ 5 câu hỏi trắc nghiệm - 5 phút).
MODULE 4 CÂU HỎI THẢO LUẬN NHÓM
Trước tiên, thời gian tự nghiên cứu, mỗi cá nhân hãy đọc kỹ các bài đọc trong phần tài liệu cơ sở và các tài liệu khác. Sau đó, chia thành nhóm từ 5-7 người, thảo luận làm rõ các vấn đề sau:
1.      Thị trường bảo hiểm Việt Nam (nhân thọ và phi nhân thọ) hiện có những sản phẩm bảo hiểm nào?
2.      Có những cách đặt tên nào cho sản phẩm bảo hiểm? Hãy lấy ví dụ cụ thể để phân tích.
3.      Trong các nhân tố ảnh hưởng đến việc xác định giá cả của sản phẩm bảo hiểm, theo anh chị, nhân tố nào là quan trọng nhất? Tại sao? Cho một dẫn chứng cụ thể.
4.      Cạnh tranh về giá có là cách thức phù hợp hay không trên thị trường bảo hiểm? Tại sao có? Tại sao không? Phải làm gì để chống xu hướng giảm giá không lành mạnh?
MODULE 4 BÀI TẬP TÌNH HUỐNG 1
Trong module 2 và 3 các bạn đã quyết định khởi nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ và dự án thành lập doanh nghiệp của bạn đã được Bộ Tài chính cấp giấy phép. Khi triển khai hoạt động kinh doanh bảo hiểm, Ban điều hành quyết định sử dụng một cách đa dạng các kênh phân phối.
1.      Bạn chọn những loại hình nghiệp vụ bảo hiểm nào để kinh doanh trong kế hoạch hoạt động 5 năm đầu tiên của doanh nghiệp mình? Giải thích tại sao?
2.      Nếu đó là những sản phẩm đã và đang có mặt trên thị trường được thực hiện bởi những đối thủ cạnh tranh, bạn có ý định làm mới nó không? Và làm mới nhự thế nào?
3.      Thử phát họa sơ đồ tổ chức công ty mà trong đó cho thấy sự tương tác giữa quản lý nghiệp vụ (sản phẩm) và quản lý hệ thống hệ thống phân phối sản phẩm? Chỉ ra nhưng rủi ro có thể gặp phải

MODULE 4 BÀI TẬP TÌNH HUỐNG 2
Hãy đọc bài báo sau đăng tải trên Thời báo Kinh tế Sài gòn
BẢO HIỂM VÀ LÒNG TIN
Thị trường bảo hiểm, dù là đang tăng trưởng mạnh hay đã ổn định, luôn phải dựa vào lòng tin của khách hàng để phát triển. Lòng tin ấy phải chăng đang bị thử thách?
Sút giảm niềm tin
Theo Bộ Tài chính, giai đoạn 2005-2006 là thời điểm thị trường bảo hiểm mở cửa đón thêm nhiều doanh nghiệp mới. Trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ có các doanh nghiệp trong nước như BIC, AAA, Toàn Cầu, Bảo Nông, Bảo Tín; nước ngoài có AIG, QBE, ACE, Liberty. Trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ là ACE Life, Prévoir...
Tuy nhiên, về kết quả hoạt động, năm 2006 thị trường bảo hiểm có những chuyển biến không thuận lợi (xem thêm số liệu cụ thể trong bài Bảo hiểm nhân thọ chưa hết khủng hoảng trên cùng chuyên đề này).
Các chuyên gia nhận định rằng thị trường bảo hiểm nhân thọ đã qua giai đoạn bùng nổ nên tốc độ tăng trưởng đã chậm lại. Thường là khi quy mô thị trường vượt 2% GDP thì tốc độ tăng trưởng chỉ còn 5-10%/năm.
Tuy nhiên, còn một nguyên nhân quan trọng khác khiến tốc độ khai thác hợp đồng bảo hiểm mới gặp khó khăn, đó là do niềm tin của khách hàng đã không còn như trước. Đó là hậu quả của việc phát triển hợp đồng bảo hiểm nhân thọ một cách ồ ạt, chụp giật, thiếu lành mạnh của một số hãng bảo hiểm trong thời gian qua. Trình độ nghiệp vụ, đạo đức của đội ngũ nhân viên chưa cao để khách hàng đặt hết niềm tin vào các doanh nghiệp bảo hiểm. Cơ chế công bố thông tin, cơ chế tính phí, chia lãi quá phức tạp, đôi khi lập lờ đã làm giảm kỳ vọng của người dân vào các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ rất nhiều.
“Thực tế, hầu như các đại lý bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam chưa coi đây là nghề chuyên môn mà chỉ nhằm khai thác những mối quan hệ cá nhân để kiếm hoa hồng. Họ chưa thực sự trở thành người tư vấn giúp khách hàng có được những sản phẩm đúng với nhu cầu”, một quan chức Vụ Bảo hiểm, Bộ Tài chính nhận xét.
Nguyên nhân sâu xa hơn của việc này lại xuất phát từ chính bản thân các doanh nghiệp. Lâu nay họ hầu như chỉ khai thác quanh quẩn các sản phẩm truyền thống mà tính hấp dẫn đang ngày càng giảm so với các sản phẩm tài chính khác trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán... Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng chưa đầu tư đúng mức để nâng cao chất lượng tuyển dụng, đào tạo, quản lý và sử dụng đại lý.
Cạnh tranh bằng phí hoa hồng
Trong khi bảo hiểm nhân thọ chững lại thì thị trường bảo hiểm phi nhân thọ lại tăng trưởng tốt. Theo thống kê của Bộ Tài chính, năm 2006, doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 6.445 tỉ đồng, tăng 17,5% so với năm 2005. Mức tăng trưởng tuy cao, nhưng chưa đáng mừng vì thị trường bảo hiểm phi nhân thọ còn quá nhỏ, mới chiếm 0,66% GDP. Tỷ lệ này rất thấp so với các nền kinh tế có cùng điều kiện với Việt Nam.
Vấn đề lớn nhất hiện nay của lĩnh vực này là tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Các doanh nghiệp bảo hiểm không cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ mà bằng cách hạ phí, trả hoa hồng sai quy định, mở rộng quá mức quyền lợi bảo hiểm, làm giảm hiệu quả kinh doanh. Nhiều trường hợp cạnh tranh thông qua quan hệ cá nhân và can thiệp hành chính để các doanh nghiệp khác không được tiếp cận khai thác dịch vụ.
Tổng giám đốc Bảo Việt, ông Trần Trọng Phúc, bức xúc nói có những sản phẩm bảo hiểm được doanh nghiệp giảm phí tới 30-40%, thậm chí còn hạ tới dưới mức sàn mà các công ty bảo hiểm nước ngoài đưa ra. “Đó là điều không thể chấp nhận được”, ông Phúc nói.
Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm không hề có kế hoạch đầu tư nghiên cứu để xây dựng các sản phẩm bảo hiểm mới, hoặc các loại hình bảo hiểm còn yếu như bảo hiểm thiên tai nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính, hoạt động hành nghề y dược, luật sư. Các kênh phân phối bảo hiểm như ngân hàng, bưu điện gần như còn bỏ trống. “Các doanh nghiệp bảo hiểm mới chỉ lo cạnh tranh với nhau mà quên đi việc phải làm sao cạnh tranh được với các dịch vụ tài chính khác”, ông Trịnh Thanh Hoan, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm, Bộ Tài chính nhận xét.
Theo quy định hiện hành, những đối tượng khác như người không phải kinh doanh đại lý, môi giới bảo hiểm; khách hàng mua bảo hiểm; cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đều không được phép nhận chi trả hoa hồng. Bộ Tài chính có quy định về tỷ lệ phần trăm hoa hồng doanh nghiệp được phép chi, nhưng trên thực tế, hoa hồng đã biến tướng thành nhiều dạng khác nhau.
Phân tích các yếu tố trên thị trường, Bộ Tài chính cho rằng, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ chưa chú trọng nghiên cứu xây dựng quy tắc, điều khoản, biểu phí sản phẩm bảo hiểm. Phần lớn các quy tắc đều dịch lại từ sản phẩm của nước ngoài. Mỗi doanh nghiệp chưa có thương hiệu hay phân khúc thị trường rõ ràng. Một số sản phẩm bảo hiểm được lắp ghép một cách khập khiễng dẫn đến không tái bảo hiểm được toàn bộ sản phẩm hoặc chỉ tái bảo hiểm được một phần, vì vậy rủi ro cao.
Theo Bộ Tài chính, sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm thời gian tới dự báo sẽ diễn ra trên quy mô rộng hơn và mức độ gay gắt hơn. Thứ trưởng Trần Xuân Hà cho biết trong năm 2007-2008, bộ sẽ triển khai xây dựng hệ thống công nghệ thông tin kết nối các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm đáp ứng yêu cầu về nghiên cứu phân tích, dự báo, xây dựng cơ chế chính sách phục vụ cho công tác quản lý giám sát và lành mạnh hóa thị trường.

Nên bỏ mức trần chi hoa hồng
“Nên dỡ bỏ quy định mức trần đối với hoa hồng trong kinh doanh bảo hiểm để có thể hạn chế tình trạng biến tướng thiếu lành mạnh như hiện nay. Khi nền kinh tế đã chuyển sang kinh tế thị trường, nhiều doanh nghiệp bảo hiểm là công ty cổ phần nên mọi việc chi tiêu liên quan đến chi phí, liên quan đến lợi nhuận đều do các chủ sở hữu quyết định. Việc quản lý trần hoa hồng xem ra không còn phù hợp, bởi mức hoa hồng đều do các doanh nghiệp bảo hiểm tự ấn định”.
(Ông Trần Vĩnh Đức - Chủ tịch HĐQT Bảo Minh)

YÊU CẦU

Đứng trên giác độ “sản phẩm bảo hiểm” hãy giải thích điều gì đang diễn ra trên thị trường bảo hiểm Việt Nam mà bài báo trên đã đề cập đến (phân tích riêng cho thị trường nhân thọ và phi nhân thọ)? Theo bạn, phải làm gì đối với sản phẩm bảo hiểm để khắc phục tình trạng trên?